(TVPLO) – Mới đây, Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) phối hợp Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE) và Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam (TC DN&TTVN) giao Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) tổ chức hội nghị tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và triển khai một số nội dung quản lý nhà nước về đầu tư, môi trường, xây dựng, lao động cho các doanh nghiệp thuộc Câu lạc bộ Báo chí và Truyền thông (Viện IRLIE) và Câu lạc bộ Doanh nghiệp IMRIC – IRLIE bằng hình thức trực tiếp và trực tuyến vào ngày 04/06/2025, tại số 412, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7, Tp.HCM.
Việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định; giới thiệu những điểm mới, nội dung quan trọng của Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch xây dựng, trật tự xây dựng, PCCC; Luật Bảo vệ môi trường, Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành; các quy định của pháp luật lao động và Luật an toàn vệ sinh lao động của Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) là việc làm rất ý nghĩa và quan trọng để hỗ trợ các doanh nghiệp thành việc trong việc thượng tôn pháp luật…
Thông qua hội nghị giúp cho các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về các quy định quản lý nhà nước về các lĩnh vực: đầu tư, môi trường, xây dựng, lao động để áp dụng vào sản xuất, kinh doanh, đầu tư cho hiệu quả, như: thủ tục đầu tư theo quy định của Luật Đầu tư; Thực hiện chế độ báo cáo đầu tư; Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đầu tư; quy định về quản lý chất thải, thực trạng việc quản lý chất thải tại các doanh nghiệp; Quy định đối với việc thuê đất và sử dụng đất trong KCN; Quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất; Tiến độ sử dụng đất; Trách nhiệm của công ty đầu tư kinh doanh hạ tầng trong việc cho thuê lại đất và đôn đốc các doanh nghiệp thuê lại đất đưa đất vào sử dụng…
Đây là những nội dung quan trọng mà các doanh nghiệp cần nắm vững để thực thi pháp luật, phục vụ sản xuất kinh doanh. Qua đó, nâng cao ý thức tôn trọng, tự giác chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp. Đồng thời, kịp thời tháo gỡ, giải đáp những khó khăn vướng mắc; tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp đầu tư, hoạt động hiệu quả.
Tại buổi tham vấn pháp lý, các luật gia, luật sư, các tư vấn viên pháp luật của Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) đã giải đáp các thắc mắc cho các doanh nghiệp thành viên. Xin trích lược hai tình huống sau đây:
Tình huống thứ nhất: Người giám hộ có được bán nhà đất là tài sản của trẻ vị thành niên hay không?
Trả lời câu hỏi của Câu lạc bộ Báo chí – Truyền thông (Viện IRLIE): Người giám hộ đại diện cho trẻ vị thành niên trong các giao dịch dân sự mà các em không thể tự mình xác lập, quản lý tài sản và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ.
Trong đó, pháp luật luôn có những quy định mang tính chất nhân văn hướng tới bảo vệ các đối tượng yếu thế trong xã hội như trẻ em, trong đó có các quy định về người được giám hộ. Tại khoản 1 điều 46 Bộ luật Dân sự 2015 định nghĩa: Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được UBND cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này (sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọi chung là người được giám hộ).
Những đối tượng sau cần phải có người giám hộ theo quy định của Bộ luật Dân sự, cụ thể: Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc không xác định được cha, mẹ; Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ; Người mất năng lực hành vi dân sự: Là người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi và được Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự.
Tuy nhiên, đối với trẻ vị thành niên, khi cha mẹ trẻ con sống và có đầy đủ năng lực nhận thức hành vi dân sự, cha mẹ đương nhiên là người giám hộ cho con mình. Trong một số trường hợp đặc biệt như trẻ em không còn cha hoặc mẹ hoặc không còn cả cha và mẹ hay trường hợp không xác định được cha, mẹ hoặc có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự/có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi/cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự/cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con hay cha, mẹ đều không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ…
Căn cứ quy định điều 52 Bộ luật Dân sự 2015, người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên được xác định theo thứ tự: Trước hết, anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp thỏa thuận anh ruột hoặc chị ruột khác làm người giám hộ; Sau đó, trường hợp anh chị ruột đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ hoặc những người này thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ làm người giám hộ; Kế đến, trường hợp ông bà đều không còn sống hoặc không ai đủ điều kiện làm người giám hộ thì bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột hoặc dì ruột là người giám hộ cho trẻ chưa thành niên; Sau cùng, khi không còn ai trong tất cả những người nêu trên đáp ứng được điều kiện làm người giám hộ, căn cứ điều 54 Bộ luật Dân sự 2015, UBND cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ.
Căn cứ vào Điều 59 Bộ luật Dân sự 2015: người giám hộ có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của chính mình; được thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ. Tuy nhiên, việc thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người được giám hộ phải đáp ứng điều kiện tiên quyết là vì lợi ích, đem lại lợi ích tốt đẹp của người được giám hộ và trong một số trường hợp thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị lớn thì phải được sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, trẻ em nói chung có quyền có tài sản riêng ví dụ như được tặng cho tài sản riêng trong cuộc sống hằng ngày, thừa hưởng tài sản từ di chúc…Căn cứ theo quy định tại khoản 1 diều 76 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trẻ em từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý và đối với trường hợp con dưới 15 tuổi mà có tài sản riêng thì do cha mẹ quản lý. Trong trường hợp không có cha mẹ thì người giám hộ sẽ quản lý tài sản.
Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm xin khuyến nghị: Để đảm bảo việc chăm sóc, quyền và lợi ích của người giám hộ được bảo đảm, pháp luật nước ta có quy định về người giám sát người giám hộ.Người giám sát người giám hộ có thể là người thân thích của người được giám hộ hoặc cá nhân/ pháp nhân do UBND cấp xã nơi cư trú/tòa án chỉ định. Người giám sát việc giám hộ phải đáp ứng điều kiện là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ nếu là cá nhân, có năng lực pháp luật dân sự phù hợp với việc giám sát nếu là pháp nhân; có điều kiện cần thiết để thực hiện việc giám sát và phải được sự đồng ý của họ. Người giám sát việc giám hộ có quyền theo dõi, kiểm tra người giám hộ, xem xét và có ý kiến về việc quản lý tài sản của người giám hộ, hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giám hộ xem xét thay đổi hoặc chấm dứt việc giám hộ, giám sát việc giám hộ. Người giám sát việc giám hộ có trách nhiệm bảo vệ quyền lợi của trẻ và đảm bảo người giám hộ thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.
Tình huống thứ hai: Khi ly hôn chủ hộ được nắm quyền chia tài sản?
Trả lời câu hỏi của Câu lạc bộ Doanh nghiệp IMRIC – IRLIE: Việc ai là chủ hộ trong hộ khẩu có ảnh hưởng đến quyền sở hữu tài sản khi ly hôn không? Nếu tài sản do vợ chồng cùng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân, việc phân chia căn cứ vào những yếu tố nào?
Căn cứ theo khoản 1, Điều 3, Luật Cư trú 2020, chủ hộ đơn giản là người đại diện hộ gia đình trong các quan hệ hành chính: đăng ký tạm trú, nhận giấy tờ, làm thủ tục cư trú… mà không phải là người đại diện pháp lý về tài sản của cả gia đình.
Căn cứ theo Điều 59 và Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, việc đứng tên chủ hộ hay không sẽ không làm phát sinh quyền sở hữu tài sản khi ly hôn. Khi vợ chồng ly hôn, vấn đề phân chia tài sản được thực hiện.
Như vậy, việc phân định tài sản chung là tài sản do vợ chồng tạo lập trong thời kỳ hôn nhân, được tặng cho chung, thừa kế chung hoặc có thỏa thuận là tài sản chung. Tài sản riêng là tài sản có trước hôn nhân, được tặng cho riêng, thừa kế riêng…Nếu không thỏa thuận được, Tòa án sẽ chia đôi nhưng có xét đến: Hoàn cảnh của mỗi bên; công sức đóng góp; bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con chưa thành niên…Hoặc, dù tài sản đứng tên ai, ai là chủ hộ, miễn là tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân thì được coi là tài sản chung và có thể bị chia khi ly hôn.
Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn tâm khuyến nghị, quý doanh nghiệp không nên nhầm lẫn chủ hộ là chủ tài sản
Có thể thấy, nhiều người hiện từng cho rằng ai đứng tên chủ hộ, đứng tên trên giấy tờ nhà đất thì sẽ có lợi thế lớn khi chia tài sản. Đây là sự hiểu lầm rất phổ biến. Tòa án khi chia tài sản sẽ dựa trên bản chất sự đóng góp và nguồn gốc hình thành tài sản, không dựa vào hình thức giấy tờ hộ khẩu hay tên gọi chủ hộ.
Cùng với đó, dẫu là chồng hay vợ, dù có đứng tên chủ hộ hay không, nếu tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân thì đều là tài sản chung. Hay khi “đường ai nấy đi”, Tòa án sẽ dựa vào nhiều yếu tố khách quan để phân chia, không thiên vị bên nào.
Vì lẻ đó, đừng để những hiểu lầm về “chủ hộ là chủ tài sản” dẫn đến tranh chấp không đáng có khi ly hôn. Hãy tìm hiểu kỹ pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình một cách đúng đắn và minh bạch.
Giám đốc Chi nhánh số 1 (Long Thành, Đồng Nai), ThS.LS. Nguyễn Thành Hưng – PGĐ Trung tâm TTLCC