(TVPLO) – Sáng ngày 22/01/2025 vừa qua, tại 414, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7, TP.HCM – Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) phối hợp Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật và Kinh tế hội nhập (IRLIE) đã giao Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) tổ chức buổi tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho độc giả và các doanh nghiệp thành viên bằng hình thức trực tiếp và trực tuyến…
Tại đây, Luật sư – Thạc sỹ Nguyễn Thành Hưng – Phó giám đốc Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) đã phân tích một cách cụ thể sau: Về cơ bản việc vay tiền không trả được không trực tiếp dẫn đến việc bị phạt tù, nhưng có một số trường hợp ngoại lệ người vay có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, các khoản nợ quá hạn từ 10 – 90 ngày sẽ được xem xét là nợ xấu nhóm 2, vì đây là thời gian vượt quá hạn tương đối lớn và tăng nguy cơ không trả nợ đúng hạn.
Vay tiền ngân hàng không trả được thì làm như thế nào?
Căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành, việc vay mượn tiền là một quan hệ dân sự. Khi một người vay tiền của ngân hàng, hai bên thiết lập một hợp đồng vay vốn, trong đó quy định rõ về số tiền vay, lãi suất, thời hạn trả nợ và các điều khoản khác.
Qua đó, nếu người vay không trả được nợ đúng hạn, ngân hàng có quyền áp dụng các biện pháp thu hồi nợ theo quy định của pháp luật, điển hình:
Nhắc nợ: Ngân hàng sẽ liên hệ với người vay để nhắc nhở về việc trả nợ.
Cơ cấu lại khoản nợ: Ngân hàng có thể xem xét gia hạn thời gian trả nợ, điều chỉnh lãi suất hoặc áp dụng các biện pháp khác để hỗ trợ người vay.
Khởi kiện ra tòa: Nếu người vay vẫn không trả nợ sau một thời gian, ngân hàng có quyền khởi kiện ra tòa án để yêu cầu người vay trả nợ.
Tuy nhiên, người vay có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có một trong các hành vi sau:
Căn cứ theo Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Vay tiền bằng hình thức gian dối (cung cấp thông tin sai lệch về khả năng tài chính).
Sau khi vay tiền, cố tình không trả nợ mặc dù có khả năng trả; Sử dụng tiền vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả nợ.
Căn cứ vào Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) tội chiếm đoạt tài sản: Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền vay; Bỏ trốn nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ.
Mức phạt: Mức phạt cho các tội này có thể từ cải tạo không giam giữ đến phạt tù có thời hạn, tùy thuộc vào mức độ vi phạm và giá trị tài sản chiếm đoạt. Mức phạt tù cao nhất có thể lên đến 20 năm.
Nợ quá hạn bao nhiêu ngày sẽ thành nợ xấu nhóm 2?
Căn cứ tại điểm b khoản 1 của Điều 10 trong Thông tư 11/2021/TT-NHNN về phân loại nợ và cam kết ngoại bảng theo phương pháp định lượng, việc phân loại nợ và cam kết ngoại bảng sẽ được thực hiện như sau: Tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ thực hiện phân loại nợ (trừ các khoản trả thay theo cam kết ngoại bảng) thành các nhóm:
Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn): Khoản nợ trong hạn và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn; Khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi còn lại đúng thời hạn; Khoản nợ được phân loại vào nhóm 1, thường được xem là nhóm có rủi ro thấp, vì các khoản nợ trong nhóm này được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ đúng hạn hoặc trong thời gian ngắn sau khi quá hạn. Điều này giúp tổ chức tín dụng quản lý rủi ro nợ một cách hiệu quả và đảm bảo tiền vay được trả đúng hạn.
Nhóm 2 (Nợ cần chú ý): Khoản nợ quá hạn đến 90 ngày, trừ khoản nợ quy định tại điểm a của Điều này; Khoản nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu còn trong hạn, trừ khoản nợ quy định tại điểm b khoản 2, khoản 3 của Điều này; Khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại khoản 2, khoản 3 của Điều này.
Trong đó, nhóm nợ 2 thường được xem là nhóm có rủi ro cao hơn so với nhóm nợ 1. Các khoản nợ trong nhóm này đã vượt quá thời hạn 90 ngày hoặc đã được điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu nhưng vẫn còn tồn tại rủi ro không nhỏ. Vì vậy, tổ chức tín dụng cần chú ý và quản lý cẩn thận những khoản nợ trong nhóm này để giảm thiểu rủi ro và đảm bảo hiệu quả trong thu hồi nợ.
Căn cứ theo quy định, nợ nhóm 2 được xem xét là nhóm nợ cần chú ý. Những khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày sẽ được phân loại vào nợ nhóm 1, vì lẻ đó các khoản nợ này được xem xét là có rủi ro thấp hơn. Trái lại, các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày, theo quy định, sẽ được xem xét là nợ xấu nhóm 2, vì đây là thời gian vượt quá hạn tương đối lớn và tăng nguy cơ không trả nợ đúng hạn. Điều này làm tăng rủi ro cho tổ chức tín dụng và đòi hỏi sự quản lý cẩn thận hơn đối với các khoản nợ trong nhóm này.
Căn cứ theo quy định thì nợ nhóm 2 là nhóm nợ cần chú ý, thì đó thì các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày sẽ xếp vào nợ nhóm 1 do đó, các khoản nợ quá hạn từ trên 10 ngày đến 90 ngày thì sẽ được coi là nợ xấu nhóm 2.
Căn cứ theo quy định khoản 3 của Điều 10 trong Thông tư 11/2021/TT-NHNN về phân loại nợ và cam kết ngoại bảng theo phương pháp định lượng, việc phân loại nợ và cam kết ngoại bảng sẽ được thực hiện như sau:
Các chỉ tiêu về khả năng sinh lời, khả năng thanh toán, tỷ lệ nợ trên vốn, dòng tiền, khả năng trả nợ của khách hàng được đánh giá liên tục qua 3 lần đánh giá: Việc này giúp tổ chức tín dụng có cái nhìn toàn diện về tình hình tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng theo thời gian. Nếu các chỉ tiêu này suy giảm liên tục qua các đợt đánh giá, điều này có thể cho thấy mức độ rủi ro của khoản nợ đó đang tăng lên. Dựa trên các thay đổi này, tổ chức tín dụng có thể điều chỉnh phân loại nợ một cách liên tục, đảm bảo quản lý rủi ro nợ một cách chính xác và hiệu quả.
Khách hàng không cung cấp đầy đủ, kịp thời và trung thực các thông tin theo yêu cầu của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài để đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng: Thông tin được cung cấp đầy đủ và chính xác đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá rủi ro và quản lý tín dụng. Nếu khách hàng không cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời, tổ chức tín dụng có thể gặp khó khăn trong việc đánh giá chính xác khả năng thanh toán và rủi ro của khoản nợ. Điều này có thể dẫn đến việc phân loại khoản nợ vào các nhóm rủi ro cao hơn hoặc thậm chí tăng cường các biện pháp an ninh tín dụng đối với khách hàng đó.
Quang Huy (PCVP Viện IMRIC, CTVTVPL Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm)