(TVPLO) – Có thể thấy, việc trợ giúp pháp lý là một chính sách nhân văn của Đảng và Nhà nước dành cho những người không có khả năng sử dụng dịch vụ pháp lý có thu phí, theo đó người nghèo, người yếu thế trong xã hội được sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có vướng mắc, tranh chấp pháp luật.
Trong quá trình hoạt động của Hiệp hội Nghiên cứu, Tư vấn về Chính sách, pháp luật cho hoạt động đầu tư tại Việt Nam (AVRCIPL); Viện Nghiên cứu Thị trường – Truyền thông Quốc tế (IMRIC) thường xuyên phối hợp Viện Nghiên cứu Chính sách pháp luật&Kinh tế hội nhập (IRLIE); Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam luôn xem công tác trợ giúp pháp lý góp phần giúp người dân giảm nghèo về pháp luật, do đó, Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua năm 2006 và Luật Trợ giúp pháp lý được Quốc hội thông qua năm 2017 đều xác định người nghèo là nhóm đối tượng ưu tiên đầu tiên trong các nhóm đối tượng được trợ giúp pháp lý…
Cụ thể, vào sáng ngày 03/10/2025, tại số 412, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Tân Thuận, TP.HCM. Hiệp hội AVRCIPL; Viện IMRIC phối hợp Viện IRLIE; TC DN&TTVN giao Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) tổ chức buổi tham vấn, phổ biến giáo dục pháp luật miễn phí bằng hình thức trực tiếp và trực tuyến. Đồng thời, truyền tải nội dung trên các trang tin điện tử, mạng xã hội, tạp chí in như: www.huongnghiepthitruong.vn (Viện IMRIC); www.chinhsachphapluat.vn (Viện IRLIE); www.tuvanphapluatvietnam.vn (Trung tâm TVPLMS); www.thamvanphapluat.vn (Trung tâm TTLCC); www.nghiencuupldautu.vn và www.phattrienspcongnghe.vn (Hiệp hội Nghiên cứu, Tư vấn về Chính sách, pháp luật cho hoạt động đầu tư tại Việt Nam “AVRCIPL”); www.bestlife.net.vn; www.doanhnghiepnongnghiep.vn (liên kết Tạp chí Doanh nghiệp và Trang trại Việt Nam); www.vanhoacongdong.vn (Hiệp hội Phát triển Văn hoá cộng đồng Việt Nam)…
Như vậy, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành, địa phương, Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm về công tác trợ giúp pháp lý cho người nghèo, người yếu thế được triển khai đồng bộ, thống nhất trên toàn quốc và được thực hiện thường xuyên, trong đó chú trọng các hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo, người yếu thế như: thực hiện vụ việc trợ giúp pháp lý; truyền thông về trợ giúp pháp lý ở cơ sở; nâng cao năng lực đội ngũ người thực hiện trợ giúp pháp lý, đội ngũ người tham gia trợ giúp pháp lý…
Cùng với đó, các hoạt động trợ giúp pháp lý được Hiệp hội AVRCIPL; Viện IMRIC; Viện IRLIE; TC DN&TTVN và Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm tuyên truyền về các vụ việc trợ giúp pháp lý, với mong muốn ngày càng được nâng cao, nhiều vụ việc thành công, hiệu quả như người được trợ giúp pháp lý được tuyên không có tội hoặc được tuyên mức án nhẹ hơn hoặc chuyển tội danh hay thay đổi khung hình phạt thấp hơn so với mức đề nghị trong cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân…Đặc biệt, trongsuốt thời gian qua trợ giúp pháp lý đã thể hiện rất tốt vai trò của mình trong việc đảm bảo việc xét xử vụ việc khách quan, đúng người, đúng tội, tránh được oan sai cho người dân cũng như đã thực hiện thành công chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước dành cho người nghèo, các đối tượng yếu thế trong xã hội. Trợ giúp pháp lý đã giúp người dân sử dụng pháp luật khi có tranh chấp, vướng mắc, giúp người dân “giảm nghèo về pháp luật”, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, người dân yên tâm lao động để giảm nghèo về kinh tế…
Tại buổi tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật miễn phí lần này, các luật gia, luật sư, tư vấn viên, cọng tác viên tư vấn pháp luật của Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm (TTLCC) đã tham vấn về hai trường hợp cụ thể như sau:
Tình huống thứ nhất: Vợ chồng lập di chúc để lại tài sản cho nhau được không?
Thành viên CLB DN IMRIC – IRLIE nêu câu hỏi: Hai vợ chồng chúng tôi, có ý định lập di chúc để lại thừa kế cho nhau để khi một trong hai người mất đi thì người kia được toàn quyền định đoạt tài sản thì có được không?
Có thể hiểu, hiện nay pháp luật không cấm vợ chồng lập di chúc để lại toàn bộ tài sản cho nhau sau khi mất, miễn di chúc được lập đúng quy định. Căn cứ theo Điều 624 Bộ luật Dân sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Pháp luật cũng không có quy định nào cấm việc vợ/chồng không được để lại thừa kế cho người còn lại sau khi chết. Do đó, việc vợ/chồng lập di chúc để lại toàn bộ di sản thừa kế cho nhau sau khi chết là đúng quy định pháp luật.
Việc vợ lập một di chúc riêng để lại toàn bộ tài sản cho chồng sau khi mất, đồng thời chồng cũng lập một di chúc riêng để lại toàn bộ tài sản cho vợ khi mất hoàn toàn phù hợp quy định pháp luật.
Thế nhưng, tại Điều 630 Bộ luật Dân sự – để đảm bảo giá trị pháp lý thì di chúc cần thỏa mãn các điều kiện như sau: Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép; Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
Trong đó, di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ hai điều kiện nêu trên. Mặt khác, di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Ngoài ra, di chúc miệng có thể được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm xin khuyến nghị: Theo pháp luật quy định thì một số cá nhân vẫn được hưởng một phần di sản của người lập di chúc mà không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Tại khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự quy định, những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng 2/3 suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản đó là con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con thành niên mà không có khả năng lao động.
Tình huống thứ hai: Muốn tố cáo chồng ngoại tình, thu thập bằng chứng thế nào cho đúng?
Thành viên CLB DN IMRIC – IRLIE nêu câu hỏi: Khi vợ hoặc chồng ngoại tình, người bị phản bội cần thu thập bằng chứng gì để ly hôn và tố cáo hợp pháp?
Căn cứ Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, tòa án chỉ xác định bằng chứng là chứng cứ để giải quyết ly hôn khi các bằng chứng được thu thập thuộc một trong các trường hợp, cụ thể: Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận; Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó, về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.
Cùng với đó, thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
Ngoài ra, tại khoản 2 lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh hoặc khai bằng lời tại phiên tòa…Vì lẻ đó, quý doanh nhân khi thu thập bằng chứng phải đảm bảo tính khách quan, hợp pháp, phù hợp với quy định của Bộ Luật tố tụng dân sự nói trên.
Căn cứ theo Điều 48 – Nghị định 110/2013/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 67/2015/NĐ-CP), người ngoại tình có thể bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng.
Bên cạnh quy định về xử phạt hành chính, pháp luật hiện hành còn quy định trách nhiệm hình sự về vấn đề vi phạm nghĩa vụ một vợ một chồng nếu đủ các yếu tố cấu thành tại Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng trong Bộ luật Hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 của Việt Nam.
Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm: Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm: Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát; Đã có quyết định của tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.
Trưởng Văn phòng giao dịch tại Phú Quốc (An Giang), Phạm Vũ Thiên Thi – Trung tâm tư vấn pháp luật Toàn Tâm